LM Vũ Hân (1985)
Mười năm tị nạn tại Hoa Kỳ vụt trôi qua, tuy nhiên trí nhớ cũng mòn mỏi, không còn nhớ được đầy đủ nhiều việc đã xảy ra. Nay có dịp tốt đẹp để nhắc lại một kỷ niệm đẹp về tình yêu thương của Đức Mẹ đối với đoàn con tị nạn, tôi rất vui mừng ghi lại sơ lược gốc tích nào đã dẫn đưa cộng đoàn Tự Do nhận bổn mạng là Đức Mẹ Vô Nhiễm.
Pho tượng Đức Mẹ Việt Nam Tị Nạn mà giáo xứ Maria Nữ Vương Việt Nam chúng ta tại New Orleans đang lưu giữ là một pho tượng của người Công Giáo Việt Nam tị nạn. Người tặng pho tượng này trước khi tắt thở đã trăng trối một lời “đem tượng Đức Mẹ này đến nơi có nhiều người Công Giáo để tôn kính.”
Pho tượng nguyên là của riêng gia đình ông bà Vũ Văn Phiêu, Sài Gòn. Ông bà đã mua được pho tượng này trong một cuộc hội chợ bán đấu giá. Pho tượng đã từng được nhiều giáo xứ tại Sài Gòn mượn để cung nghinh trong các cuộc rước hoa tháng Năm và rước kiệu Mân Côi trong tháng Mười là tháng Mân Côi. Trong những ngày khói lửa gây hốt hoảng cuối tháng Tư năm 1975, bà Vũ Văn Phiêu (tức là bà Maria Lương Thị Hoa) đã vội vã đem tượng Đức Mẹ với một chút tài sản nhỏ di tản ra phi trường Tân Sơn Nhất với sự giúp đỡ của người con rể là thiếu tá Không Quân Trương Ngọc Đính. Nhưng rủi ro cho bà Hoa, lúc sắp sửa lên máy bay thì bà bị tai nạn xe cộ, bà tắt thở tại phi trường. Giữa cảnh bom đạn, giữa lúc hốt hoảng và lo sợ, không ai có chút thời giờ nào để lo an táng cho bà.
Mọi người phải vội vã lên máy bay, nếu không, có thể còn nhiều cái chết thê thảm nữa. Chính vì xác bà Hoa để lại Tân Sơn Nhất, không chôn cất, mà tượng Đức Mẹ mới có thể lên máy bay cùng với các con của bà, vì theo luật khẩn cấp lúc đó, mỗi người chỉ được đem một gói hành lý nhỏ tùy thân lên máy bay. Nhưng anh chị Trương Ngọc Đính với hai dòng lệ đã năn nỉ phi hành đoàn cho đưa cái rương đựng tượng Đức Mẹ đi theo gia đình anh chị. Phi hành đoàn đã cảm động chấp thuận một ngoại lệ, cho một rương hành lý khá lớn đựng tượng Đức Mẹ lên máy bay.
Chị Đính kể lại cho tôi một truyện rằng trong khi đem tượng Đức Mẹ lên máy bay thì có một người lạ cũng xoay xở để xách được một vali nhỏ từ trong đống hành lý vất lại phi trường lên máy bay. Chính vali đó lại là vali đựng triều thiên của tượng Đức Mẹ.
Tại trại tạm trú Fort Chaffee, anh chị Đính đã đến nhà thờ La Vang chuyện vãn với tôi, rồi một ngày anh chị đến trịnh trọng xin dâng pho tượng cho toàn thể người Công Giáo Việt Nam Tị Nạn với lời trăng trối của bà Hoa. Chẳng bao lâu tới tháng hoa Đức Mẹ. Một giáo dân đã khẩn khoản tha thiết yêu cầu các cha Tuyên Úy Fort Chaffee tổ chức một cuộc rước kiệu để tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ và để đốt lên một ngọn lửa đạo đức trong tâm hồn bơ vơ lạc lõng. Cuộc rước hoa chiều ngày 31 tháng Năm năm 1975 đã lôi kéo vào đoàn rước kiệu 7,205 người (theo lời trung sĩ Hermann, người đã ngồi tại cửa nhà thờ La Vang để đếm). Hồi đó cũng lập được một đoàn dâng hoa 40 em do tôi và 2 sisters Mến Thánh Giá tập tành, hiện có một trong 2 sisters ở tại New Orleans là Sister Mai. Để có được 40 em bé dâng hoa, mỗi nhà thờ trong trại tạm trú tuyển lựa 10 em. Riêng nhà thờ Các Thánh Tử Đạo, cha Phạm Văn Tuệ đã gọi tất cả các thiếu nhi xếp hàng trước cửa nhà thờ. Các chị huynh trưởng Thiếu Nhi giúp cha làm một cuộc tuyển lựa, mà trẻ em hồi đó gọi đùa là “tuyển hoa hậu”. Cha đã lựa chọn được 10 em coi xinh đẹp nhất và có dáng vóc đều đặn với nhau. Bốn mươi em dâng hoa đã tập luyện cẩn thận, và đến ngày rước hoa thì mỗi em đi ra ven rừng tìm các thứ hoa rừng kết lại thành bó hoa theo mầu sắc đã nhận. Biết đâu có những em dâng hoa ngày hôm đó nay có mặt tại New Orleans, như Hoàng thị Hồng.
Người Việt tị nạn được định cư rải rác khắp nước Mỹ theo chính sách phân tán của chính phủ. Tất cả mọi chương trình muốn tụ họp của các linh mục Việt Nam đểu không phù hợp với chính sách trên, nên tất nhiên không được ủng hộ. Trại tạm trú Fort Chaffee sắp sửa đóng cửa vì người tị nạn đã đi gần hết. Tượng Đức Mẹ Tị Nạn sẽ đi về đâu ?
Một tia sáng chói lọi đã đến, đó là New Orleans. Tổng Giáo Phận New Orleans với sự lãnh đạo rất thương mến và hào hiệp của của Đức Cha Philip M. Hannan đã quyết định nhận nhiều người Việt Nam tị nạn vào định cư trong tổng giáo phận. Cha Haddad giám đốc cơ quan USCC của tổng giáo phận đã đến Fort Chaffee quan sát, và nhân dịp đã gặp được cha Trần Công Nghị để chuyện vãn. Lúc đó tại New Orleans đã có khá nhiều người Việt đến định cư. Tổng giáo phận lập một thí điểm tại West Bank, cho dân Việt cư ngụ trong một chung cư bình dân tại Kingstown thuộc giáo xứ St. Joseph The Worker. Ý tưởng đầu tiên là giáo xứ Thánh Giuse sẽ nhận chừng 700 người Việt, cho gia nhập giáo xứ, như là để quân bình với hai sắc dân da trắng và da đen đã có trong giáo xứ. Tổng giáo phận cần thêm những linh mục Việt Nam, và dịp này cha Phạm Văn Tuệ đã đề nghị với cha Haddad mời 2 cha Việt Châu và cha Trần Cao Tường lúc đó đang ở New York. Cha Việt Châu đã được cử làm Tuyên Úy khắp cả vùng West Bank, và cha Tường vùng East. Những công việc định cư và phục vụ người Việt tị nạn rất là nhiều, chưa biết phải giải quyết làm sao. Cuối cùng cha Haddad đã xin cha Trần Công Nghị xuống New Orleans để lập một tổ chức mới là Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam, lúc đó là tháng 9 năm 1975.
Các cha Tuyên Úy Fort Chaffee là cha Mai Thanh Lương, Lê Thành Nghĩa, O.P., Vũ Hân và Phạm Văn Tuệ đã mời Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam lên Fort Chaffee để nhận pho tượng. Phái đoàn từ New Orleans gồm cha Việt Châu, cha Trần Cao Tường, ông Hoàng Tự Lập và anh Nguyễn Tấn Tài đã tới Fort Chaffee tối ngày 6 tháng 12 năm 1975. Một nghi lễ tiễn đưa tượng Đức Mẹ đã diễn ra sau thánh lễ chiều, cách rất đơn sơ trong giá lạnh của mùa Đông, nhưng vô cùng cảm động. Cha Lê Thành Nghĩa đã phát biểu lời tiễn biệt tượng Đức Mẹ với hai hàng nước mắt, làm cho tất cả các cha, với hơn 100 giáo dân còn lại Fort Chaffee rưng rưng hàng lệ.
Sáng ngày 8 tháng 12 năm 1975 tại New Orleans, tượng Đức Mẹ được rước đến nhà thờ Hope Haven giữa một đoàn giáo dân đông đảo và ấm cúng. Đó là Lễ trọng mừng Đức Mẹ Vô Nhiễm đầu tiên của cộng đồng người Việt tại New Orleans. Tôi được vinh dự đại diện cho Fort Chaffee tiễn đưa tượng Đức Mẹ đến trao cho New Orleans, tôi rất sung sướng thấy cảnh đón tiếp Đức Mẹ nơi những tâm hồn đạo đức. Đó là kỷ niệm ghi sâu trong tâm hồn giáo dân Việt Nam tại New Orleans nói chung và tại Marrero nói riêng.
Phong trào đọc kinh tối trong mỗi gia đình từ khi có Tượng Đức Mẹ VNTN được thêm tinh thần sốt mến. Phong trào này được cha tuyên úy Việt Châu hướng dẫn với sự hợp tác đắc lực của Ban Đại Diện Công Giáo trong Ban Đại Diện Cộng Đoàn Marrero. Chủ tịch Ban Đại Diện đầu tiên của cộng đoàn là kỹ sư Lê Thanh Trang (nay là tiến sĩ Lê Thanh Trang), người Phật Giáo. Những vị nhiệt thành hoạt động trong Ban Đại Diện Công Giáo gồm khá đông, như các ông Dương Viết Quang, Nghiêm Văn Phú, Hoàng Dương Duyệt, Hoàng Tự Lập. Ngoài ra, đồng bào vẫn còn nhớ sự nhiệt thành của Ban An Ninh Xã Hội gồm có ông Nguyễn Minh Tiên, ông Ngô Bảy, Ngô Tám, v.v... là những người không quản ngại khó khăn và hy sinh để lo kiếm việc cũng như chuyên chở cho bất cứ ai cần tới.
Nhà thờ Thánh Giuse Thợ vẫn đều đặn giúp đỡ mọi cách để cộng đồng Việt tham dự đều hòa với giáo xứ Mỹ. Cha sở cho xe đưa đón giáo dân tới nhà thờ dự lễ. Hằng ngày gởi các Sisters đến thăm viếng giúp đỡ các người già cả hoặc trẻ em đau yếu. Trung tâm sinh hoạt của Kingstown tổ chức nhiều cuộc sinh hoạt, học tập chung cho cả da đen và người Việt. Hàng tuần ban đại diện Việt cử người đến họp với Ban Đại Diện của giáo xứ Thánh Giuse. Tuy nhiên, vị chủ tịch cộng đoàn lại là người Phật Giáo, nên rất nhiều sinh hoạt của cộng đồng không thích hợp với ông, bởi đó ông Lê Thanh Trang đã từ nhiệm rất sớm. Vị chủ tịch kế tiếp là ông Hoàng Tự Lập.
Cuối năm 1976, người Việt tuôn về New Orleans đông hơn nữa, đông hơn sự dự trù của USCC đến nỗi USCC đã có vẻ như chán nản. Nhưng có người rất nhẫn nại lo lắng cho người Việt tị nạn, đó là bà Jane Foley. Bà đã cố gắng hết sức mình, cùng với cha Việt Châu, tìm những cư xá mới cho người Việt, như Normandy tại Bridge City và một cư xá nữa tại 901 Gretna Blvd, Gretna. Từ tháng 12 năm 1975 đã có cha Tuệ phục vụ cộng đoàn tại Woodland, cha Việt Châu vẫn bề bộn với cả một vùng từ Gretna cho tới Bridge City. Cùng lúc đó, cha Trần Công Nghị đã mệt mỏi nên muốn nghỉ để đi học tiếp. Hai cha khác về tiếp tục công việc là cha Mai Thanh Lương từ Buffalo, New York và tôi (Vũ Hân) từ New Mexico. Tôi tiếp tục công việc của cha Việt Châu tại Marrero, trong khi đó cha Việt Châu lo cho cộng đoàn Bridge City. Đến lúc này thì 3 cộng đoàn có tên Việt là cộng đoàn Hùng Vương tại Versailles Apts, New Orleans East, cộng đoàn Hưng Đạo tại Woodlands Apts, Algiers, New Orleans, cộng đoàn Toàn Mỹ tại Bridge City, cộng đoàn Marrero vẫn giữ tên Marrero. Marrero không có hứng thú gì đặt tên Việt cho cộng đoàn, vì tất cả các sinh hoạt của cộng đoàn đều có liên hệ tới giáo xứ Mỹ trong chiều hướng “gia nhập xã hội Mỹ.” Hàng tuần Ban Đại Diện Việt cử người đến họp với giáo xứ Mỹ từ 7 giờ tối đến 10 giờ đêm để nghe giáo xứ báo cáo tình hình sinh hoạt của giáo xứ. Ủy Ban Việt Nam có gì thì báo cáo, không có thì ngồi nghe. Tình trạng sinh hoạt chung gò ép này không kéo dài lâu được, vì nếp sinh hoạt của 2 cộng đoàn hoàn toàn khác nhau. Vị chủ tịch kế tiếp của Ban Đại Diện Việt Nam tại cộng đoàn Marrero là Bác sĩ Vũ Thế Truyền, một khuôn mặt sáng giá từ Alabama mới đến New Orleans. Chính chủ tịch BS Vũ Thế Truyền yêu cầu đặt một tên Việt cho cộng đoàn, và từ đó có tên là Cộng Đoàn Tự Do.
Trải qua 2 đời chủ tịch Lập và Truyền, 2 đời cha tuyên úy Việt Châu và Vũ Hân, sự hội nhập vào giáo xứ Mỹ đã cố gắng nhưng không thể thực hiện được, vì nhiều lý do. Tỉ dụ lớp giáo lý của nhà thờ Thánh Giuse không thể thâu nhận hết học sinh Việt Nam. Mỗi phòng học chỉ có thể dung nạp được vài ba chục học sinh, khi học sinh Việt Nam đến dự thì mỗi lớp tăng lên tới 50. Cha Doussan bèn khẩn cấp yêu cầu cha tuyên úy Việt lo mở lớp riêng cho học sinh Việt. Một vài năm, cộng đoàn Việt không tổ chức Tuần Thánh, cha tuyên úy yêu cầu giáo dân đến giáo xứ Mỹ tham dự nghi lễ, giáo dân Việt Nam đến nhà thờ khá sớm và đã chiếm hết một nửa số chỗ ngồi trong nhà thờ, giáo dân Mỹ đành phải đứng. Tất nhiên là cha sở yêu cầu Việt Nam lo tổ chức lễ lạt riêng. Cộng đoàn Tự Do trưởng thành dần dần. Cộng đồng rất hãnh diện với các vị chủ tịch cộng đồng và ban đại diện, vì vị chủ tịch nào cũng sáng giá để được bầu giữ chức vụ chủ tịch cho cả 4 cộng đồng, cộng đồng hãnh diện với Ban Giáo Lý gồm toàn những giảng viên xuất sắc và đầy tinh thần hy sinh để đảm trách các lớp Giáo Lý và Việt Ngữ. Phụ huynh và học sinh vẫn còn nhớ quí giảng viên như anh Bùi Văn Hiển, thầy Hoàng Dương Duyệt, các cô Hà, Hồng. Sau đó chương trình Giáo Lê được vững mạnh hơn nữa dưới sự lãnh đạo của Sister Thanh và các sisters Mân Côi với các ông Vương Hữu Trung, Trần Văn Bình, các con ông Quang, các con ông Trần Bá Cao, v.v...(Tôi rất lấy làm tiếc không nhớ ngay ra được hết).
Ca đoàn Tự Do vẫn kiên trì dưới sự điều khiển của các anh Khôi, anh Trần Tập, anh Vũ Trọng Thanh, cô Dương Phước Hải, cô Bùi Thu Hằng, và người đánh đàn: ông Đoàn Đức Nhâm. Tới khi anh Thanh Tuyền dẫn dắt ca đoàn, ca đoàn Tự Do lấy tên mới Alleluia và phát triển đầy đủ với sự trợ giúp tận tình của Ban Đại Diện, của cộng đoàn và của các ân nhân.
Đến vị chủ tịch kế tiếp là ông chủ tịch Bùi Ngọc Thanh, cộng đồng Tự Do bước thêm một bước khá dài nữa, cộng đoàn đã có Hội Gia Đình Phạt Tạ, nay thêm Hội Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Phải nhìn nhận rằng chính lòng sùng kính Đức Mẹ nơi mỗi giáo dân và sự nhiệt thành của tinh thần tông đồ giáo dân đã đưa đến việc thành lập Hội Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Hội Đức Mẹ HCG gồm toàn là các bà các cô, nhưng người vận động mạnh mẽ nhất là ông Dương Viết Quang. Hội Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đã làm được rất nhiều việc thay cho cộng đồng Tự Do trong những công tác chung của cả 4 cộng đồng và những công tác giúp giáo xứ Thánh Giuse trong các ngày hội chợ giáo xứ. Dầu rằng không có trụ sở nào để các hội đoàn sinh hoạt, thế mà Hội Đức Mẹ HCG vẫn còn tồn tại tới ngày nay, trong khi Đoàn Thiếu Nhi không còn nữa. Hội Phạt Tạ không có cơ hội sinh hoạt đều đặn, ca đoàn phải chạy đây chạy đó kiếm chỗ tập hát và tổn phí rất nhiều để duy trì. Tôi tin rằng lòng yêu mến Đức Mẹ đã nâng đỡ tinh thần phục vụ của giáo dân. Ông chủ tịch Thanh đã lo tổ chức mọi mặt cho cộng đồng, từ Khu Xóm đến liên gia, từ việc tìm các cá nhân hợp tác cho đến củng cố các hội đoàn, từ việc để ý đến từng em học sinh đến việc lo vun trồng cho trường Giáo Lý. Đến năm 1981 thì chính ông chủ tịch gợi ý cộng đồng Tự Do cần phải nhận Đấng Thánh bổn mạng. Ban Đại Diện đã hội họp với cha tuyên úy. Sau khi bàn định, sau khi ôn lại những kỷ niệm dấu yêu của cộng đoàn, toàn thể hội nghị đã rất hoan hỉ nhận Đức Mẹ Maria với tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội làm bổn mạng.
Từ năm 1981 đến nay, cộng đồng Tự Do hay là Họ Đức Mẹ Vô Nhiễm đã nhìn thấy rõ con đường mình phải đi là thành lập căn bản cho một họ đạo, nghĩa là phải có cơ sở để nuôi dưỡng đời sống tôn giáo, nơi học tập giáo lý, nơi học hỏi văn hóa, nơi sinh hoạt hội đoàn. Mỗi lần nghĩ đến cảnh di chuyển nơi làm lễ chiều Chúa Nhật, mỗi lần nghĩ đến cảnh thuê mướn hội trường để cử hành Tuần Thánh, mỗi lần khao khát có một nơi để tĩnh tâm, v.v... thì lòng mỗi người lại cảm thấy như thiêu như đốt, muốn có ngay một cơ sở riêng cho cộng đồng. Công việc chuẩn bị đã khởi đầu từ 2 năm nay. Ngày hoàn thành ngôi nhà có thể như đã nhìn thấy rõ là vào Hè năm 1986.
Tôi muốn viết vài chục trang nữa để kể lại các ơn lành Chúa đã ban cho cộng đồng, để nhắc tới hết mọi người đã góp công góp của góp tài để xây dựng cộng đồng, nhưng không đủ tài để viết, không đủ trí để nhớ rành mạch, đặc san cũng không còn chỗ để trình bày. Xin Chúa và Đức Mẹ luôn luôn thương mến các con cái có lòng rộng rãi với cộng đồng.
LM Vũ Hân
Đặc San Giáng Sinh 1985
Cộng Đồng Tự Do
Họ Đức Mẹ Vô Nhiễm Thực Hiện